QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG KHI LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN CỦA CÔNG TY

Hiện nay, thực tế xảy ra nhiều trường hợp người lao động làm hư hỏng dụng cụ, thiết bị hoặc có hành vi khác gây thiệt hại cho người sử dụng lao động dẫn đến phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Vậy pháp luật quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người lao động như thế nào? Bài viết dưới đây sẽ trình bày cụ thể về vấn đề trên.

Căn cứ theo quy định tại Điều 130 Bộ luật lao động năm 2012, có thể chia thành 03 trường hợp sau đây:

Trường hợp 1: Người lao động gây thiệt hại không nghiêm trọng.

Trường hợp người lao động gây thiệt hại không nghiêm trọng do sơ suất với giá trị không quá 10 tháng lương tối thiểu vùng do Chính phủ công bố được áp dụng tại nơi người lao động làm việc, thì người lao động phải bồi thường nhiều nhất 03 tháng tiền lương ghi trong hợp đồng lao động của tháng trước liền kề trước khi gây thiệt hại bằng hình thức khấu trừ hằng tháng vào lương theo quy định tại Khoản 3 Điều 101 của Bộ luật Lao động. Cụ thể, mức khấu trừ tiền lương hằng tháng không được quá 30% tiền lương hằng tháng của người lao động sau khi trích nộp các khoản bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, thuế thu nhập.

Trường hợp 2: Người lao động gây thiệt hại nghiêm trọng

Căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 32 Nghị định 05/2015/NĐ-CP người lao động phải bồi thường thiệt hại một phần hoặc toàn bộ theo thời giá thị trường khi thuộc một trong các trường hợp sau:

– Do sơ suất làm hư hỏng dụng cụ thiết bị với giá trị thiệt hại thực tế từ 10 tháng lương tối thiểu vùng trở lên áp dụng tại nơi người lao động làm việc do Chính phủ công bố;
– Làm mất dụng cụ, thiết bị, tài sản của người sử dụng lao động hoặc tài sản khác do người sử dụng lao động giao;
– Tiêu hao vật tư quá định mức cho phép của người sử dụng lao động.
Ngoài ra, nếu người lao động gây thiệt hại cho người sử dụng lao động thuộc các trường hợp trên mà có hợp đồng trách nhiệm với người sử dụng lao động thì phải bồi thường theo hợp đồng trách nhiệm.

Trường hợp 3: Người lao động gây thiệt hại do sự kiện bất khả kháng

Trường hợp thiệt hại do thiên tai, hỏa hoạn, địch họa, dịch bệnh, thảm họa hoặc do sự kiện xảy ra khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù người sử dụng lao động đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép thì người lao động không phải bồi thường.

Như vậy, khi người lao động làm hư hỏng tài sản dẫn đến gây thiệt hại cho người sử dụng lao động thì cần căn cứ vào nguyên nhân và mức độ thiệt hại để xem xét trách nhiệm bồi thường của người lao động theo các trường hợp vừa nêu trên.

Trên đây là nội dung tư vấn của Công ty Luật TNHH Nguyễn Lê Trần và Cộng sự. Nếu Quý khách hàng có thắc mắc, cần hỗ trợ pháp lý xin vui lòng qua số điện thoại, email hoặc liên hệ trực tiếp tại Công ty để được hỗ trợ, thực hiện.

Trân trọng!

Bài viết
Nguyễn Minh Trí

#boithuongthiethai
#nguoilaodong
#huhongtaisan

🍀🍀CÔNG TY LUẬT TNHH NGUYỄN LÊ TRẦN VÀ CỘNG SỰ ️
Địa chỉ: 14-16 Tôn Đản, Phường 13, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh.
Hotline: 0938.343.384 (Ls. Binh) – 0938.132.982 (Ls.Quyền) – 0977.761.893 (Ls.Huy)
Email:nltlawfirm@gmail.com
Web: www.citylawyer.vn

 

 

 

 

 

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *